Nậm Pồ là một huyện vùng sâu, vùng xa, biên giới của tỉnh Điện Biên, cách trung tâm thành phố 165 km. Huyện có 15 đơn vị hành chính cấp xã (trong đó 08/14 xã biên giới, 14/15 xã đặc biệt khó khăn) với 131 bản, với 9.328 hộ, trên 51.000 nhân khẩu, gồm 08 thành phần dân tộc chủ yếu sinh sống, trong đó: Dân tộc Mông 69,18%, dân tộc Thái 18,50%, dân tộc Dao 4,15%, dân tộc Kinh 3,21%, dân tộc Khơ Mú 1,58%, dân tộc Hoa 1,52%, dân tộc Kháng 0,91%, dân tộc Cống 0,75%, dân tộc khác 0,2%, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, kết cấu hạ tầng phục vụ dân sinh chưa đáp ứng được yêu cầu, đời sống dân cư còn nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo của huyện cao thứ 2 trong toàn tỉnh. Làm thế nào để giảm nghèo nhanh và bền vững đang là thách thức lớn đối với huyện.
Kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2016 (theo chuẩn nghèo đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020), toàn huyện có 6.375/9.385 hộ nghèo, tỷ lệ hộ nghèo chiếm 67,93%, giảm 4,16% so với năm 2015, trong đó số hộ nghèo về thu nhập là 6.242 hộ, chiếm 97,93% số hộ nghèo; có 522 hộ cận nghèo, chiếm tỷ lệ 5,56%, tăng 1,15% so với năm 2015. Đa số hộ nghèo là đồng bao dân tộc thiểu số với 6.362 hộ, chiếm 99,80% (trong đó: Dân tộc Mông có 5.132 hộ, chiếm 80,50%; Dân tộc Thái có 638 hộ nghèo, chiếm 10,01%; Dân tộc Dao có 277 hộ nghèo, chiếm 4,35%; Dân tộc Khơ Mú có 122 hộ nghèo, chiếm 1,91%, Dân tộc Hoa có 69 hộ nghèo, chiếm 1,08%; Dân tộc thiểu số khác (Cống, Kháng, Tày) có 124 hộ nghèo, chiếm 1,95%).
Hộ nghèo tập trung chủ yếu ở các xã có điều kiện cơ sở hạ tầng, giao thông, thương mại, dịch vụ kém phát triển, có thành phần dân tộc chủ yếu là dân tộc Mông, thu nhập chính của người dân nơi đây là sản xuất nông nghiệp, phương thức sản xuất lạc hậu, năng suất, sản lượng thấp, bên cạnh đó giao thông đi lại khó khăn nên việc trao đổi hàng hóa với các vùng lân cận không phát triển gồm các xã: Nậm Chua, Nậm Nhừ, Nà Khoa, Na Cô Sa, Nà Bủng, Nậm Tin, Vàng Đán, số hộ nghèo vùng này chiếm 56,08% số hộ nghèo toàn huyện.
(Người dân sinh sống, lao động ở nơi có cơ sở hạ tầng thấp kém)
Tại các xã có điều kiện cơ sở hạ tầng, kinh tế - xã hội tương đối phát triển, đặc biệt phát triển về thương mại, dịch vụ gồm các xã Chà Nưa, Chà Cang, Chà Tở, Nậm Khăn, Pa Tần, Nà Hỳ, đây được coi là vùng kinh tế động lực của huyện, vùng này dân cư sống sống tập trung, có xen ghép giữa dân tộc Mông, dân tộc Thái, dân tộc Dao và số ít dân tộc Cống (Pa Tần), tỷ lệ hộ nghèo vùng này chiếm 26,95% số hộ nghèo toàn huyện.
Vùng còn lại gồmxã Si Pa Phìn và Phìn Hồ, chiếm 16,97% số hộ nghèo toàn huyện, đây là vùng có điều kiện giao thông phát triển (Có Quốc lộ 4H chạy qua), có tiềm năng về đất đai, tuy nhiên lại là vùng có địa hình chủ yếu là đồi núi cao, khó khăn về nguồn nước sản xuất và sinh hoạt nên thế mạnh phát triển kinh tế - xã hội của vùng này là chăn nuôi đại gia súc và trồng lúa nước, đời sống, thu nhập nhân dân vùng này tương đối ổn định.
Mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của hộ nghèo trên địa bàn huyện còn cao, trong đó:
- Hộ nghèo sử dụng hố xí/nhà tiêu không hợp vệ sinh hoặc không có hố xí/nhà tiêu là 5.963 hộ, chiếm 93,5%; có 1.217 hộ nghèo chưa được sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh, chiếm 19,1%;
- Về nhà ở: Có 3.589 hộ nghèo ở nhà diện tích bình quân dưới 8m2/người, chiếm 56,3%; có 1.771 hộ nghèo còn ở nhà thiếu kiên cố/nhà đơn sơ, chiếm 27,8%;
- Về giáo dục, y tế và tiếp cận thông tin: 3.226 hộ nghèo có thành viên từ 15 đến dưới 30 tuổi không tốt nghiệp THCS và hiện không đi học, chiếm 50,6%; có 388 hộ nghèo có trẻ em từ 5 đến dưới 15 tuổi hiện không đi học, chiếm 6,09%; có 20 hộ nghèo thiếu hụt tiếp cận dịch vụ y tế (hộ có người bị ốm đau nhưng không đi khám chữa bệnh), chiếm 0,31%; có 2.484 hộ nghèo thiếu tài sản tiếp cận thông tin (không có ti vi, radio, máy tính, không nghe được hệ thống loa đài truyền thanh xã/bản), chiếm 39%; có 586 hộ nghèo chưa tiếp cận được với các dịch vụ viễn thông (không có thành viên nào sử dụng điện thoại di động hoặc internet), chiếm 9,19%;
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến nghèo là trình độ sản xuất rất lạc hậu nên thu nhập thấp; do địa bàn huyện thuộc vùng sâu, vùng cao biên giới, cơ sở hạ tầng chậm phát triển dẫn đến việc tiếp cận các dịch vụ xã hội và dịch vụ sản xuất của người dân còn rất hạn chế (nghèo về thu nhập chiếm đến 98%). Ngoài ra còn cộng thêm các nguyên nhân như: nghèo do đông con, thiếu lao động có 2.398 hộ chiếm 37,61%, chưa biết cách làm ăn có 3.316 hộ chiếm 52,01%, thiếu vốn làm ăn có 2.026 hộ chiếm 31,78%, mắc các tệ nạn xã hội có 568 hộ chiếm 8,91%, hộ nghèo thuộc chính sách bảo trợ xã hội có 397 hộ chiếm 6,23% số hộ nghèo toàn huyện.
Để tiếp tục cải thiện điều kiện sống của hộ nghèo, tạo điều kiện cho hộ nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản được đầy đủ, Huyện ủy Nậm Pồ đã có Nghị quyết chuyên đề về giảm nghèo bền vững, đề ra quyết tâm đến cuối năm 2020 giảm tỷ lệ hộ nghèo toàn huyện còn khoảng 50% (trung bình giảm từ 4%/năm trở lên); cải thiện đáng kể các chiều thiếu hụt chỉ số đo lượng nghèo như: Nâng tỷ lệ hộ nghèo có nhà ở kiên cố, bán kiên cố đạt khoảng 85%; hộ nghèo được sử dụng nguồn nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 85%;hộ nghèo sử dụng dịch vụ viễn thông đạt 95%; có tài sản phục vụ tiếp cận thông tin đạt 80%; được phủ sóng truyền hình Việt Nam đạt 100%, truyền hình tỉnh đạt 76,3%; tỷ lệ số hộ nghe được Đài tiếng nói VN, đài Phát thanh tỉnh đạt 74,1%; 95% số hộ được sử dụng điện lưới quốc gia; 70% số xã đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 2,3%/năm. Phấn đấu có 03 xã cơ bản đạt chuẩn nông thôn mới (từ 16-19 tiêu chí); hỗ trợ 10.000 lượt hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo vay vốn tín dụng ưu đãi; hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên 500 lao động/năm.
Chương trình giảm nghèo của huyện tập trung vào các nhiệm vụ chủ yếu: Đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn; vận động thay đổi phương thức, mô hình sản xuất theo hướng nâng cao thu nhập, tập trung phát triển trồng lúa nước, phát triển một số loại cây trồng có giá trị kinh tế cao, phát triển chăn nuôi, trồng rừng và bảo vệ rừng; mở rộng các loại hình dịch vụ xã hội, dịch vụ kỹ thuật, khuyến khích mở mang ngành nghề, đầu tư của tư nhân ở các địa bàn để nâng khả năng tiếp cận các loại hình dịch vụ xã hội, chuyển đổi cơ cấu lao động, đồng thời tăng cường kiểm tra, kiểm soát thị trường để đảm bảo hàng hóa chất lượng cho người dân; nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, chú trọng mở rộng đào tạo nghề cho lao động nông thôn; thực hiện có hiệu quả các chính sách hỗ trợ sản xuất, chính sách an sinh xã hội, chăm sóc sức khỏe nhân dân; tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, trợ giúp pháp lý, giải quyết các vấn đề xã hội ở địa bàn dân cư, đảm bảo an ninh trật tự.
Với quyết tâm đã đặt ra, cả hệ thống chính trị cùng vào cuộc với trách nhiệm cao nhất, Ban Chỉ đạo giảm nghèo của huyện đã và đang triển khai nhiều giải pháp cụ thể, đồng bộ giữa chương trình giảm nghèo với chương trình xây dựng nông thôn mới, phấn đấu đạt và vượt mục tiêu đã đề ra.